Cách thúc đẩy tăng trưởng và tối đa tiềm năng doanh số ngành FMCG

Báo cáo của Nielsen mới đây cho thấy, ngành hàng tiêu dùng nhanh (FMCG) tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương (APAC) tiếp tục tăng trưởng trở lại.

Cách thúc đẩy tăng trưởng và tối đa tiềm năng doanh số ngành FMCG

Theo NielsenIQ Việt Nam, COVID-19 đã khiến cho người tiêu dùng ngày càng để tâm đến sức khỏe của họ. Vì vậy, nhu cầu tiêu dùng sản phẩm có lợi cho sức khỏe tăng lên.

Những yếu tố tác động đến bức tranh toàn cầu về vấn đề sức khỏe có thể kể đến như quy định về nhãn sản phẩm, lượng đường trong sản phẩm, bép phì, dân số già… Điều này dẫn đến một số xu hướng tạo nên tầm quan trọng của sức khỏe như tăng chi phí chăm sóc sức khỏe, lựa chọn của người tiêu dùng trong đầu tư cho sức khỏe…

Báo cáo của Nielsen mới đây cho thấy, ngành hàng tiêu dùng nhanh (FMCG) tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương (APAC) tiếp tục tăng trưởng trở lại. Tốc độ tăng trưởng về doanh thu của những ngành hàng FMCG tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương cũng tăng đáng kể.

Khảo sát của Nielsen cũng chỉ ra rằng, người tiêu dùng tìm kiếm nhóm sản phẩm lành mạnh hơn để ngăn ngừa những vấn đề về sức khỏe; trong đó, có 39% người tiêu dùng khu vực APAC đã mua sản phẩm có yếu tố lành mạnh trong 2 năm qua, 32% sản phẩm lành mạnh có ghi nhãn, 29% sản phẩm có tính thư giãn; 26% sản phẩm có chế độ dinh dưỡng đặc biệt…

Cùng với đó, người tiêu dùng khu vực APAC cũng sẵn sàng mua và tăng chi tiêu cho sản phẩm có thông tin liên quan đến vệ sinh. Theo đó, có 74% người tiêu dùng khu vực APAC cho rằng sản phẩm về vệ sinh và bảo vệ sức khỏe rất quan trọng và trong đó có 77% sẵn sàng chi nhiều tiền hơn để mua những sản phẩm này.

Theo Nielsen, có ba động lực chính gồm kênh phân phối, giá cả khuyến mãi và tối ưu hóa danh mục sản phẩm sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng và tối đa tiềm năng doanh số.

Kênh phân phối

Đầu tiên, về kênh phân phối, dịch Covid-19 đã tạo nên sự chuyển biến trong kênh bán hàng hiện đại (Modern Trade) và kênh thương mại điện tử (E-Commerce). Tuy nhiên, tại Việt Nam, kênh bán hàng truyền thống vẫn chiếm ưu thế trên thị trường, với 85% thị phần ngành tiêu dùng đến từ kênh này.

Với ngành hàng FMCG của Việt Nam, có 13% các cửa hàng lớn đóng góp 50% doanh thu, ngược lại 49% các cửa hàng nhỏ chỉ đóng góp 20% doanh thu. Với những ngành hàng như thực phẩm, giải khát và bia, sự phân bổ tương đối giống nhau. Tuy nhiên, với những ngành hàng như chăm sóc cá nhân, chăm sóc nhà cửa, em bé, sản phẩm từ sữa, sự tập trung này còn mạnh mẽ hơn nữa. Cụ thể, chỉ chiếm 6-8% nhưng cửa hàng lớn có thể đóng góp tới 50% doanh số.

Kênh phân phối FMCG

“Đây là thời điểm cần thiết để xem xét đâu mới là vấn đề quan trọng nhất vì việc tập trung vào tất cả mọi thứ là điều không khả thi. Kênh bán hàng truyền thống vẫn là kênh quan trọng không thể lơ là. Vì vậy, việc xác định những cửa hàng mang lại hiệu suất cao nhất (cửa hàng vàng) và việc cập nhật những thông tin mới nhất để điều chỉnh chiến lược kinh doanh là việc vô cùng quan trọng”, ông Richard Thomas – Giám đốc bộ phận Giải pháp Kinh doanh hiệu quả của Nielsen Việt Nam chia sẻ.

Giá và khuyến mãi

Về giá và khuyến mãi, Việt Nam là thị trường rất nhạy cảm về giá. Có 80% người tiêu dùng được hỏi cho biết họ có nhận thức rõ ràng khi giá thay đổi.

Vì vậy, trước khi áp dụng chiến lược thay đổi về giá, các doanh nghiệp cần có bức tranh tổng quát, chi tiết về độ co giãn về giá đối với các ngành hàng đang được bán ở các kênh khác nhau.

Giá và khuyến mãi

Thị trường Việt Nam cũng ảnh hưởng rất nhiều bởi khuyến mãi. Có đến 56% doanh thu được tạo ra từ chương trình khuyến mãi. Với tình trạng nhiều người bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch bệnh hiện nay, có chiến lược đúng đắn về giá và khuyến mãi là vô cùng cấp thiết.

Tối ưu hóa danh mục sản phẩm

Bên cạnh hai vấn đề trên, việc cân nhắc để tối ưu danh mục sản phẩm cũng là động lực cho doanh nghiệp tăng trưởng. Theo phân tích của các chuyên gia Nielsen Việt Nam, người tiêu dùng Việt Nam luôn rất cởi mở với các sản phẩm mới khi có đến 49% người tiêu dùng cho biết họ sẵn sàng thử chúng. Trong khi đó, doanh nghiệp cũng nghiên cứu đưa ra thị trường nhiều mã sản phẩm vì muốn trưng bày sản phẩm lên kệ, giúp thương hiệu, sản phẩm xuất hiện nhiều hơn trong mắt người tiêu dùng.

Tuy nhiên, không cứ có nhiều sản phẩm, doanh nghiệp sẽ có được nhiều thị phần hơn trên kênh hiện đại. Vì cho dù nhiều sản phẩm được trưng bày nhưng không tạo được sự hấp dẫn trên quầy kệ sẽ không thu hút được tầm nhìn của người mua sắm. Và dù có lọt vào tầm ngắm nhưng không đủ ấn tượng, người tiêu dùng cũng không lưa chọn mua. Từ đó dẫn đến việc tốn kém chi phí đưa sản phẩm lên quầy kệ nhưng lại không mang về doanh thu và doanh số tương xứng.

“Lúc này, các doanh nghiệp cần phải suy nghĩ lại rằng liệu việc đưa ra quá nhiều mã sản phẩm như vậy là cần thiết hay không. Ngược lại, một mã sản phẩm phù hợp có thể mang lại 15% tăng trưởng doanh số ở kênh truyền thống. Thêm vào đó, danh mục càng phân mảnh, khả năng trống kệ càng cao và từ đó làm lỡ đi cơ hội bán hàng của doanh nghiệp. Vì vậy, việc tung ra quá nhiều sản phẩm là không cần thiết”, ông Lê Hoàng Long – Quản lý bộ phận tư vấn chuỗi bán lẻ của Nielsen Việt Nam chia sẻ.

Theo các chuyên gia, bên cạnh việc tối ưu hóa danh mục sản phẩm, trong thời điểm này, doanh nghiệp có rất nhiều cơ hội để đổi mới các sản phẩm với lợi ích đặc trưng, khám phá các kích cỡ bao bì mới với những mức giá khác nhau phù hợp với đa dạng các nhu cầu cũng như chuyển đổi phân bổ nguồn hàng trong các kênh và tối ưu hóa danh mục sản phẩm đang có trong thị trường ngách.